Ngữ văn 10 - Đề tài: Giới thiệu về tác giả “Nguyễn Trãi”

Ngữ văn 10 - Đề tài: Giới thiệu về tác giả “Nguyễn Trãi”

Đề: Giới thiệu về tác giả “Nguyễn Trãi”

MB: Nhắc đến NT không ai là không biết đến ông. Ông là một thiên tài văn học ở nữa thế kỉ XV của nước VN chúng ta. Hãy cùng tìm hiểu về tác giả Nguyễn Trãi

TB: Cuộc đời của NT gặp rất nhiều gian truân và những mất mát đau thương. Nguyễn Trãi(1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại. Thân phụ là Nguyễn Ứng Long, thân mẫu là Trần Thị Thái. Nguyễn Trãi mang trong mình dòng máu được kế thừa từ bên nội cũng như bên ngoại là yêu nước và văn hóa,văn học. Thưở niên thiếu, NT đã phải hứng chịu những mất mát, đau thương: chịu tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khí NT mới vừa tròn 10 tuổi. Ông thi đỗ và làm quan cho nhà Hồ cùng với cha mình năm 1400. Đến 1407, giặc Minh đến cướp nước ta, cha NT bị bắt đưa về TQ, NT theo cha nhưng đến biên giới, nghe lời cha khuyên “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, ấy mới là đại hiếu”, NT quay lại tìm cách rửa nhục cho đất nước. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, NT đã từ Đông Quan tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi và dâng “Bình Ngô đại cáo” cho Lê Lợi rồi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân Minh đến toàn thắng 1427. Ông đã góp công rất lớn đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn. Ngay sau đó, NT hăng hái bắt tay vào việc xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị, vua dân hòa mục nhưng lại bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ và không còn được tin dùng nhiều. Năm 1439, ông xin về ở ẩn nhưng đến năm 1440, vua Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp nước. Năm 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghe thăm NT ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. NT bị gian thần vu khống cho tội giết vua và bị xử án “tru di tam tộc”. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho NT, sau đó sưu tầm lại thơ văn của ông và tìm con cháu của ông để bổ làm quan. Lê Thánh Tông đã khẳng định nhân cách và tâm hồn lớn của NT với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quan khê tảo”

 Về sự nghiệp thơ văn thì NT được coi là một cây đại thụ đầu tiên của văn học Việt Nam. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả hai lĩnh vực chữ Hán cũng như chữ Nôm. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm nổi tiếng có giá trị cao như: “Quân trung từ mệnh tập”, “Ức Trai thi tập”, “Bình Ngô đại cáo”, “Quốc âm thi tập”, “Lam Sơn thực lực” NT là một nhà yêu nước vĩ đại. Sống trong cảnh nước mất nhà tan, ông sớm xác định đường đi cho mình. Ông đặt niềm tin vào ngọn cờ chính nghĩa của Lê Lợi. Tư tưởng quán xuyến mọi hoạt động của ông là tư tưởng nhân nghĩa mà nội dung cơ bản là lòng yêu nước, thương dân. Trong nhận thức và tình cảm của NT thì yêu nước phải gắn liền với thương dân, cứu nước trước hết phải cứu dân và chỉ có dựa vào dân mới có thể thành công được. Nhận rõ vai trò quyết định của nhân dân trong công cuộc giữ nước, ông chủ trương tập hợp “mệnh lệ bốn phương” làm thành sức mạnh kháng chiến.

 Sau chiến thắng, NT tiếp tục vận dụng tư tưởng nhân nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước. Nguyện ước của ông là “trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”. Ông trủ trương phép nước phải thuận lòng dân. NT cũng rất quan tâm đến việc giáo dục đào tạo làm người. Ông quan niệm cái quí báu hơn mọi thứ của cải trên đời là tình nghĩa, sống giản dị, không tham lợi, tham giàu, ham làm thiện. Bên cạnh nỗi lo lắng về cuộc sống vật chất cho dân, NT còn luôn quan tâm, thấu hiểu khát vọng tinh thần của con người. Sự thấu hiểu đó chứng tỏ NT là con người có lí tưởng nhân văn sâu sắc. Dưới chế độ quân chủ triều Lê đang phát triển theo hướng chuyên chế ngày càng nặng nề, tư tưởng nhân nghĩa của NT trở thành lạc lõng, thậm chí còn gây nên mâu thuẫn gay gắt đối với bọn quyền thần. Đó là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của ông.

 

doc 5 trang Người đăng thuyan12 Lượt xem 1411Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ văn 10 - Đề tài: Giới thiệu về tác giả “Nguyễn Trãi”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề: Giới thiệu về tác giả “Nguyễn Trãi”
MB: Nhắc đến NT không ai là không biết đến ông. Ông là một thiên tài văn học ở nữa thế kỉ XV của nước VN chúng ta. Hãy cùng tìm hiểu về tác giả Nguyễn Trãi
TB: Cuộc đời của NT gặp rất nhiều gian truân và những mất mát đau thương. Nguyễn Trãi(1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại. Thân phụ là Nguyễn Ứng Long, thân mẫu là Trần Thị Thái. Nguyễn Trãi mang trong mình dòng máu được kế thừa từ bên nội cũng như bên ngoại là yêu nước và văn hóa,văn học. Thưở niên thiếu, NT đã phải hứng chịu những mất mát, đau thương: chịu tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khí NT mới vừa tròn 10 tuổi. Ông thi đỗ và làm quan cho nhà Hồ cùng với cha mình năm 1400. Đến 1407, giặc Minh đến cướp nước ta, cha NT bị bắt đưa về TQ, NT theo cha nhưng đến biên giới, nghe lời cha khuyên “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, ấy mới là đại hiếu”, NT quay lại tìm cách rửa nhục cho đất nước. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, NT đã từ Đông Quan tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi và dâng “Bình Ngô đại cáo” cho Lê Lợi rồi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân Minh đến toàn thắng 1427. Ông đã góp công rất lớn đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn. Ngay sau đó, NT hăng hái bắt tay vào việc xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị, vua dân hòa mục nhưng lại bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ và không còn được tin dùng nhiều. Năm 1439, ông xin về ở ẩn nhưng đến năm 1440, vua Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp nước. Năm 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghe thăm NT ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. NT bị gian thần vu khống cho tội giết vua và bị xử án “tru di tam tộc”. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho NT, sau đó sưu tầm lại thơ văn của ông và tìm con cháu của ông để bổ làm quan. Lê Thánh Tông đã khẳng định nhân cách và tâm hồn lớn của NT với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quan khê tảo”
 Về sự nghiệp thơ văn thì NT được coi là một cây đại thụ đầu tiên của văn học Việt Nam. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả hai lĩnh vực chữ Hán cũng như chữ Nôm. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm nổi tiếng có giá trị cao như: “Quân trung từ mệnh tập”, “Ức Trai thi tập”, “Bình Ngô đại cáo”, “Quốc âm thi tập”, “Lam Sơn thực lực” NT là một nhà yêu nước vĩ đại. Sống trong cảnh nước mất nhà tan, ông sớm xác định đường đi cho mình. Ông đặt niềm tin vào ngọn cờ chính nghĩa của Lê Lợi. Tư tưởng quán xuyến mọi hoạt động của ông là tư tưởng nhân nghĩa mà nội dung cơ bản là lòng yêu nước, thương dân. Trong nhận thức và tình cảm của NT thì yêu nước phải gắn liền với thương dân, cứu nước trước hết phải cứu dân và chỉ có dựa vào dân mới có thể thành công được. Nhận rõ vai trò quyết định của nhân dân trong công cuộc giữ nước, ông chủ trương tập hợp “mệnh lệ bốn phương” làm thành sức mạnh kháng chiến.
 Sau chiến thắng, NT tiếp tục vận dụng tư tưởng nhân nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước. Nguyện ước của ông là “trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”. Ông trủ trương phép nước phải thuận lòng dân. NT cũng rất quan tâm đến việc giáo dục đào tạo làm người. Ông quan niệm cái quí báu hơn mọi thứ của cải trên đời là tình nghĩa, sống giản dị, không tham lợi, tham giàu, ham làm thiện. Bên cạnh nỗi lo lắng về cuộc sống vật chất cho dân, NT còn luôn quan tâm, thấu hiểu khát vọng tinh thần của con người. Sự thấu hiểu đó chứng tỏ NT là con người có lí tưởng nhân văn sâu sắc. Dưới chế độ quân chủ triều Lê đang phát triển theo hướng chuyên chế ngày càng nặng nề, tư tưởng lâcâ thiaantâm hông đã khănddddddddddgggggg g nhân nghĩa của NT trở thành lạc lõng, thậm chí còn gây nên mâu thuẫn gay gắt đối với bọn quyền thần. Đó là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của ông. 
 NT cũng là người đặt nền móng cho nền thơ ca viết bằng TV. Trong văn học trung đại VN, ông là nhà văn chính luận lỗi lạc nhất. Ông đã để lại khối lượng khá lớn văn chính luận. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các áng văn chính luận của NT là tư tưởng yêu nước, thương dân, nhân nghĩa. Văn chính luận của NT có giá trị mẫu mực và là một cột mốc đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của văn luận chiến một thời. NT không những là nhân chứng cho những biến động bão táp cảu lịch sự mà ông còn là người trực tiếp tham gia vào những biến động đó. Ngay cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng trầm. Vì vậy, thơ ông thể hiện rõ một vốn sống đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp và một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con người. 
 Về hình thức nghệ thuật, văn chương NT đã có đóng lớn ở cả hai bình diện cơ bản là thể loại và ngôn từ. Bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ của văn chương trung đại, thơ Nôm của ông vẫn mang tính uyên bác, sử dụng nhiều điển cố điển tích và các hình ảnh tượng trưng ước lệ. Tuy nhiên nhờ sử dụng chữ Nôm mà thơ của NT đã ngày càng dung dị, tự nhiên, gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động. Từ ngữ trong thơ Nôm thường có sức gợi tả mạnh và đặc biệt độc đáo. Nhờ chữ Nôm, NT đã thành công trong việc đưa vào thơ ca bác học nguồn thi liệu vô cùng quý giá của tục ngữ, thành ngữ và ca dao
KB: NT là bậc anh hùng dân tộc, là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử nước nhà, là danh nhân văn hóa TG nhưng đồng thời cũng là người chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến VN. Ông được đánh giá là thiên tài văn học, là hồn thơ kết tinh tinh hoa văn hóa Lí-Trần, là người mở đường cho cả một giai đoạn mới của thơ viết bằng TV. Và ông cũng đã góp phần thúc đẩy, làm cho TV trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp
Đề: Thuyết minh: “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”
MB: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là 1 trong 20 chuyện được trích từ tác phẩm viết bằng chữ Hán “Truyền kì Mạn Lục” của Nguyễn Dữ. Thông qua việc xây dựng hình ảnh một kẻ sĩ kiên quyết đấu tranh chống lại sự tham tàn, dối trá, bạo ngược của hồn ma 1 tướng giắc phương Bắc, Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực XH phong kiến đương thời
TB: Ngô Tử Văn - 1 kẻ sĩ nước Việt được giới thiệu là một người “khẳng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là 1 người cương trực”. Tính cách ấy được tác giả làm rỏ qua những việc làm cụ thể của Ngô Tử Văn
 Trước việc hồn ma của 1 viên tướng giặc phương Bắc bại trận, tranh chiếm miếu đền của thổ thần nước Việt , tác yêu tác quái hại dân. Ngô Tử Vân đã rất tức giận, tấm gội sạch sẻ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền để trừ hại cho dân. Việc Ngô Tử Vân khấn trời trước khí đốt đền là 1 việc làm giàu ngụ ý: chàng tin vào hành động chính nghĩa của mình và mong trời chứng giám. Thậm chí ngày cả khi hồn ma Bách hộ họ Thôi giả mạo cư sĩ đến đòi chàng dựng trả ngôi đền và dọa sẽ kiện chàng dưới Âm phủ thì NTV vẫn điềm nhiên không hề run sợ. Đến lúc bị bắt giải xuống Minh ti phải đối diện với bọn quỹ dạ xoa đanh ác và quan cảnh rùng rợn nơi cỏi âm. Sự xảo trá của hồn ma tướng giặc và những lời quát tháo đầy uy quyền của Diêm Vương nhưng NTV không hề khiếp sợ mà rất cứng cỏi thẳng thắng tau trình sự việc, vạch trần tội ác của kẻ tham lam với thái độ kiên quyết, gan dạ, bất khuất
 Bằng chính nghĩa và sự dũng cảm, cương trực, kiên định đấu tranh cho chính nghĩa, cuối cùng NTV đã chiến thắng. Sự chiến thắng này của NTV không chỉ diệt trừ được tai họa, đem lại sự an bình cho dân mà còn diệt trừ được tận gốc thể lực xâm lược tàn ác, làm sáng tỏ nỗi oan khuất và phục hồi danh dự vị thổ thần cho nước Việt. Kết thúc chuyện là hồn ma tướng giặc bị bắt, bị nhốt vào ngục Cửu U, thổ thần được trở lại ngôi đền. Tử Vân được tiến cử vào chức phán sự đề Tản Viên đảm đương nhiệm vụ giữ gìn công lí. Đây là sự thưởng công xứng đáng, có ý nghĩa khích lệ cho người đời sau phải biết dũng cảm đấu tranh chống các ác, bảo vệ công lí. Sự chiến thắng của NTV sau nhiều gian nguy có ý nghĩa khẳng định niềm tin “chinh nhất định thắng tà”. NTV là đại diện cho kẻ sĩ nước Việt còn tên hung thần vốn là giặc Minh bại trận bỏ sát ở nước ta nhưng cái hồn tham lam vẫn tiếp tục quấy nhiễu nhân gian. Đề cao nhân vật NTV, chuyện càng thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sự đấu tranh triệt để đối với cái ác, cái xấu để bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính nghĩa
 Qua việc “Chức phán sự đền Tản Viên” Nguyễn Dữ còn nhằm phê phán hồn ma tướng giặc hung ác, gian tham, xảo quyệt (lúc sống thì đi xâm lược, lúc chết cũng không từ bỏ giả tâm: tranh chiếm miếu đền, giả mạo thổ thần để dọa nạt NTV, dưới âm phủ thì đến trước để uy hiếp, khi bị vạch tội thì giả nhân giả nghĩa nhằm che giấu tội ác ) nhưng cuối cùng rồi cũng vạch mặt trừng trị
 Mặt khác, truyện còn phơi bày hiện thực đầy rẫy những bất công, từ cỏi trần đến cỏi âm, kẻ ác được sung sướng, người lương thiện chịu oan ức, thánh thần ở cỏi âm cũng tham của đuốt, bao che cho kẻ ác lộng hành. Diêm Vương và các phán quan đại diện cho công lí cũng bị lắp tai che mắt. Những hiện tượng tiêu cực ở cỏi âm chình là hình chiếu những bất công trong XH đương thời mà ở đó bọn quan lại tham ô, tiếp tay cho kẻ ác, kẻ xấu gây nên bao nổi khổ cực cho nhân dân. Cũng qua câu truyện, Nguyễn Dữ muốn nhắn gửi với rằng: Hãy đấu tranh đến cúng để chống lại cái xấu, cái ác
 “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” sở dĩ hấp dẫn người đọc là bởi NT kể chuyện rất sinh động, độc đáo, gây sự chú ý cho người đọc và dự báo những diễn biến tiếp theo. Câu chuyện được thắt nút với những xung đột ngày càng gay gắt, căng thẳng dẫn đến cao trào. Câu chuyện được mở nút: “lời Tử Văn được minh chứng, sự thật được phơi bày. Công lý được thực hiện: kẻ ác phải đền tội còn người lương thiện được đền đáp”
KB: Truyện được xây dựng đầy kịch tính với kết cấu chặc chẽ, lô rít thông qua hành động của nhân dân Việt. Nguyễn Dữ đã lôi cuống người đọc cùng chia sẽ với nhau những tình cảm, quan điểm của mình. Qua câu chuyện mọi người hãy tự rút ra cho mình những bài học nhân văn
Đề: Giới thiệu về tác giả “Nguyễn Du”
MB: Nếu có ai đó hỏi bạn rằng: ai là người có tấm lòng nhân đạo sâu sắc ở thế kỉ V và là tác giả của 1 tác phẩm văn học viết về cuộc đời 15 năm lưu lạc của 1 cô gái tài hoa nhưng bạc mệnh, tội tình chắc rằng bạn sẽ không cần suy nghĩ và trả lời ngay đó là Nguyễn Du
TB: Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Quê cha của Nguyễn Du ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh-1 vùng đất đai khô cần núi non trùng điệp, nơi ẩn nấu của những nhà yêu nước, những chiến sĩ CM, vùng quê có truyền thống cách mạng và hiếu học. Vùng quê ấy đã tạo cho ND tính kiên nhẫn, chí tiến thủ để giúp ông vượt qua những trở ngại sau này trong cuộc sống. Quê mẹ của ND ở vùng Bắc Ninh- vùng quê của những làng điệu dân ca quan họ mượt mà. Vùng đất này nuôi dưỡng đời sống tâm hồn của ND và tạo nên 1 ND giàu tính cảm, cảm xúc.
 Sinh ra trong 1 gia đình, dòng họ vốn có nền học vấn uyên thâm, am hiểu thơ văn và nhiều đời làm quan đỗ đạt cao. Vì thế, ngay từ nhỏ ND đã tỏ ra là 1 người có tư chất thông minh và đây cũng là ...  loại chúng sinh). Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho nhiều hạng người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới đáy xã hộiDo giá trị nhân đạo sâu sắc mà Văn Chiêu hồn đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong phạm vi nhà chùa
 Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
 Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hànhnên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”
 Trong tác phẩm của Nguyễn Du không chỉ có không khí lễ hội mà còn có thế giới trời, Phật, thần thánh, ma quỷ; không chỉ có mồ mả, tha ma, nghĩa địa mà còn có chiêm bao, mộng mị, bói toán. Mà những điều này hầu hết đều tồn tại thường xuyên trong đời sống dân tộc Việt. Nguyễn Du từ nhân dân mà ra, sống giữa lòng nhân dân, mất đi trong sự cảm thương của nhân dân, và Nguyễn Du sẽ tồn tại đời đời cùng với nhân dân. Văn hóa bao giờ cũng là nguồn cội của sáng tác, in dấu lên sáng tác. Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng ý. Nguyễn Du cũng đã khái quát bản chất tàn bạo của xã hội và thể hiện thái độ phẩn nộ trước XH bất công. Mặt khác, ông còn để cao giá trị tinh thần và trân trọng chủ thể sáng tạo ra nó, đề cao hạnh phúc tình yêu, tự do 
KB: Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân. Ông là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học Việt Nam trung đại. Ông có đóng góp to lớn đối với văn học dân tộc về nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật, xứng đáng được gọi là thiên tài văn học
Đề: Thuyết minh “Đoạn trích Trao Duyên” trích truyện Kiều –Nguyễn Du 
MB: Trao duyên là đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 của truyện Kiều. Đoạn trích tái hiện cảnh trao duyên và tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên trong đêm cuối cùng trước khi theo Mã Giám Sinh
TB: Đoạn trích “Trao duyên” tái hiện những diễn biến tâm trạng của nàng Kiều. Có thể chia đoạn trích thành 2 đoạn nhỏ: 12 câu thơ đầu là cảnh Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng và phần còn lại là cảnh “trao duyên” và tâm trạng của nàng Kiều sau khi “trao duyên”
 Khi thuyết phục Vân, Kiều đã rất khéo léo khi ngõ lời:
 “Cậy em, em có chịu lời,
 Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự "thay bậc đổi ngôi" giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.
 Đau đớn dằn xé nhưng xem ra lời lẽ của Thúy Kiều rất khôn khéo. Nhằm nhận ra tín hiệu đồng ý: Kiều lấy tình cảnh ra để thuyết phục em, nàng nói cho Vân biết về tình yêu của mình với Kim Trọng
 “Kể từ khi gặp chàng Kim,
 Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”
Đó là 1 tình yêu gắn bó rất sâu nặng nhưng sớm phải dở dang, tan vỡ bởi “sự đau sóng gió bất kì”, tai biến bất ngờ của gia đình buộc nàng phải dức bỏ tình yêu để báo đền chữ hiếu. Có thể nói sự hi sinh đó của Kiều là 1 lí tưởng đạo đức mà con người hướng tới. 
 Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền... vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao:
 “Ngày xuân em hãy còn dài,
 Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
 Chị dù thịt nát xương mòn,
 Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!
 Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng; không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:
 “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
 Thôi thôi thiếp dã phụ chàng từ đây!”
Gọi tên người yêu mà Kiều lại như nức lên và ngất đi, cỏi lòng như đứt ra từng đoạn. Nhịp điệu câu thơ cuối cùng trùng xuống. Như 1 lời ngao ngán: Kiều tự dằn vặt, tự oán trách, tự nhận mình là kẻ phụ tình, là người có lỗi. Nàng như quên đi những bất hạnh của bản thân mình mà lo nghỉ, cảm thông với những bất hạnh của người khác. Có thể nói Kiều là hiện thân của 1 nhân cách cao thượng, giàu lòng vị tha
 Khẳng định ý thức cá nhân, khát vọng tình yêu của con người chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà Nguyễn Du muốn gửi gắm qua đoạn trích. ND chính là miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật. Diễn biến tâm trạng của Kiều được thể hiện hợp lí qua các nấc thang tâm lí: Kiều nhờ Vân trả nợ và hồi tưởng những hạnh phúc sau khi trả nghĩa cho người, Kiều trở về với lòng mình và tự thương mình, cuối cùng bi kịch được đẩy đến đỉnh cao. Để miêu tả sắc nét nội tâm của nhân vật, ND còn sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ : đối thoại với Thúy Vân, độc thoại với riêng mình có lúc như đang nói với Kim Trọng của nhân vật Thúy Kiều
KB: Đoạn thơ, trừ những câu đầu tâm sự với Thúy Vân, trao duyên cho Thúy Vân, còn thực chất là đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều. Với nghệ thuật thể hiện tài tình, Nguyễn Du giúp người đọc nhìn thấu tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?
Đề: Nêu và phân tích luận đề chính trong đoạn đầu bài “Đại cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi
Nội dung:
_Tư tưởng nhân nghĩa cốt lõi của tư tưởng này là “yêu dân trừ bạo” muốn được yên dân trước nhất là trừ bạo
_Khẳng định chân lí về độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Tác giả đưa ra những yếu tố cơ bản để xác định độc lập chủ quyền của dân tộc
 + Có nền văn hiến lâu đời: “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
 + Có cương vực lãnh thổ: “núi sông, bờ cõi đã chia”
 + Có phong tục riêng: “phong tục Bắc Nam cũng khác’
 + Có chế độ riêng: “ Từ Triệu, Đinh, Lí , Trần bao đời gây nên độc lập,
 Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
 + Có truyền thống lịch sử riêng: “ song hào kiệt đời nào cũng có”. 
 +Những ai xâm phạm đều bị thất bại: “ Lưu Cung tham công nên thất bại,
 Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong 
 Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
 Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Ý nghĩa:
_Đây là 1 tư tưởng lớn, độc đáo, sáng tạo của dân tộc VN khi đó, mà Nguyễn Trãi là người phát ngôn và kết tinh
_Nhân nghĩa phải gắn liền với chống giặc ngoại xâm. Với ý thức độc lập dân tộc cao, Nguyễn Trãi đã phát biểu quan niệm về quốc gia, dân tộc như 1 bản tuyên ngôn độc lập toàn diện hơn “ Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt

Tài liệu đính kèm:

  • docVăn 10.doc