Bài giảng môn Ngữ Văn Lớp 10 sách Kết nối tri thức - Bài 2: Viết văn bản Nghị luận phân tích. Đánh giá một tác phẩm Thơ

Bài giảng môn Ngữ Văn Lớp 10 sách Kết nối tri thức - Bài 2: Viết văn bản Nghị luận phân tích. Đánh giá một tác phẩm Thơ

 

1. Tìm hiểu bài viết tham khảo SGK:

- Vấn đề chính được bàn luận: Vẻ đẹp của bài thơ Mùa xuân xanh

- Bài nghị luận giúp người đọc hiểu về các điệu xanh của bài thơ Mùa xuân xanh thể hiện qua các yếu tố nghệ thuật của bài thơ

 

pptx 63 trang Người đăng Thực Ngày đăng 28/05/2024 Lượt xem 37Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Ngữ Văn Lớp 10 sách Kết nối tri thức - Bài 2: Viết văn bản Nghị luận phân tích. Đánh giá một tác phẩm Thơ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIẾT 
VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT TÁC PHẨM THƠ 
KHỞI ĐỘNG 
LUẬT CHƠI 
Chia lớp thành 4 nhóm tương đương 4 đội chơi. Trong thời gian 3 phút mỗi đội viết những từ ngữ thể hiện cảm nhận của mình về bài thơ “Mùa xuân xanh” lên giấy dán. 
Trong khoảng thời gian 1 phút nhóm nào dán được nhiều từ hơn, các từ có giá trị biểu cảm cao hơn sẽ giành chiến thắng. 
“Mùa xuân xanh” 
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC 
I. Tìm hiểu chung về bài văn nghị luận phân tích , đánh giá một tác phẩm thơ 
1. Tìm hiểu bài viết tham khảo SGK: 
- Vấn đề chính được bàn luận: Vẻ đẹp của bài thơ Mùa xuân xanh 
- Bài nghị luận giúp người đọc hiểu về các điệu xanh của bài thơ Mùa xuân xanh thể hiện qua các yếu tố nghệ thuật của bài thơ 
- T ác giả đã triển khai các luận điểm theo trình tự: 
+ Giới thiệu chung (nhan đề , tác giả , tác phẩm , định hướng phân tích) 
 Phân tích các yếu tố làm nên vẻ đẹp của t hơ ( Từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, các phép tu từ đối, điệp, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, ) 
Mở rộng vấn đề bài viết 
Kết luận: tóm lược các ý kiến khẳng định giá trị của bài t hơ. 
Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu bài thơ . 
P hân tích m ạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ . 
Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mĩ mà các phép tu từ này gợi ra. 
L iên hệ , so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ . 
Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ. 
Những điệu xanh của mùa xuân 
2. Tìm hiểu những đặc điểm của bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ 
Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ không phải là một bài phát biểu cảm nhận đơn thuần. 
Kiểu bài viết này đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự sáng rõ, sắc nét của luận điểm và sự mạch lạc trong tổ chức bài viết. 
Bởi vậy, người viết cần nắm chắc các tri thức về đặc trưng thi ca đã được giới thiệu trong các bài học và được làm rõ qua các tiết đọc văn bản để có những phân tích, đánh giá thuyết phục. 
3. Các yếu tố chủ yếu của một bài thơ gồm: 
+ Mạch cảm xúc của thi nhân được gửi qua những rung động và tình cảm của nhân vật trữ tình. 
+ Các yếu tố về hình thức nghệ thuật: Từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, 
Ví dụ một số đề bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ: 
- Vẻ đẹp của mùa thu trong bài thơ Thu hứng 
- Phân tích sự độc đáo của những hình ảnh trong thơ hai-cư 
- Cảm nhận về mạch liên kết cảm xúc trong bài thơ Mùa xuân chín 
4. Yêu cầu đối với bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ 
Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ được chọn 
Chỉ ra và phân tích được những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ 
Đánh giá giá trị của bài thơ về phương diện nghệ thuật cũng như ý nghĩa nhân sinh. 
II. Tìm ý, lập dàn ý bài văn nghị luận phân tích , đánh giá một tác phẩm thơ 
1. Cách tìm ý cho bài văn nghị luận p hân tích, đánh giá một tác phẩm thơ 
- Đọc lại bài thơ đã lựa chọn . C ó thể đọc thầm hoặc đọc thành tiếng để cảm nhận đầy đủ hơn về âm điệu , nhịp điệu của nó . C hú ý những cách diễn đạt lạ , có thể lần đầu mình bắt gặp và những hình ảnh gây ấn tượng . S au khi đọc , hãy suy nghĩ v ì sao bài thơ lại có những cách tổ chức và kết hợp ngôn từ đặc biệt như vậy . 
- L iên kết âm điệu , nhịp điệu , ngôn ngữ , hình ảnh của bài thơ và chú ý xem mạch liên kết này có thể đem đến cho bạn sự bất ngờ nào trong cảm xúc , l iê n tưởng và nhận thức . 
- T ìm hiểu thêm thông tin về tác giả và hoàn cảnh sáng tác , chú ý bối cảnh lịch sử , xã hội , văn hóa , văn học của bài thơ - có thể giúp hiểu sâu hơn về ngôn ngữ , hình ảnh , cảm xúc và tư tưởng của bài thơ . 
- K hi phân tích nội dung nghệ thuật của bài thơ , chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp . ( Ví dụ : so sánh từ ngữ mà nhà th ơ lựa chọn với những từ ngữ đồng nghĩa , gần nghĩa , từ đó l ý giải vì sao lựa chọn của nhà thơ có thể được xem nhà tối ưu .) 
- C ần tập trung vào những phương d iện hì nh thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo , mới m ẻ, thú vị . 
- Khi đánh giá bài thơ , cần chú ý đầ y đủ các gi á trị thẩm m ĩ và giá trị nhân văn của nó. (B ài thơ gợi cho bạn những trải nghiệm đặc biệt g ì về cảm giác , cảm xúc , nhận thức ? N hững trải nghiệm đó có ý nghĩa như thế nào đối với bạn ?) 
* Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,) và nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết. 
Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình 
Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng 
Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ để, thể loại 
* Thân bài 
* Kết bài 
Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận. 
III. Thực hành 
Đề bài: Vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 
1. Bước 1: Chuẩn bị viết 
Dạng bài: nghị luận đánh giá, phân tích một tác phẩm thơ 
Về nội dung: Vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 
Về thao tác lập luận: Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận để triển khai vấn đề nghị luận 
Về phạm vi dẫn chứng: Sử dụng ngữ liệu trong tác phẩm “ Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 
1. Bước 1: Chuẩn bị viết 
 Hệ thống luận điểm triển k hai bài viết : 
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhan đề bài thơ 
Phân tích, đánh giá sự gợi mở của nhan đề bài thơ 
Phân tích, đánh giá mạch cảm xúc của nhà thơ 
Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người qua những tín hiệu thẩm mĩ ( từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,) 
Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ để, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác). 
 PHIẾU TÌM Ý: 
Vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 
Các ý cần tìm hiểu 
Từ ngữ thể hiện 
Nhận xét 
Ý nghĩa nhan đề 
Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình 
Vẻ đẹp thiên nhiên trong “Đây thôn Vĩ Dạ” 
Vẻ đẹp con người trong “Đây thôn Vĩ Dạ” 
Vẻ đẹp của tâm hồn thi sĩ 
Đánh giá hiệu quả của các tín hiệu thẩm mĩ trong việc thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong “Đây thôn Vĩ Dạ” 
2 . Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý 
2 . Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý 
Lập dàn ý bằng cách dựa vào các ý đã tìm được, sắp xếp lại theo một trình tự nhất định theo ba phần lớn của bài văn, gồm: 
Mở bài 
Thân bài 
Kết bài  
Mở bài 
Giới thiệu ngắn gọn về nhà thơ Hàn Mặc Tử và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”: Hàn Mặc Tử - một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Rút từ tập “Thơ điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ ẩn chứa một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của thi sĩ.  
* Bức tranh Vĩ Dạ xinh đẹp, tươi tắn 
Thân bài 
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”: lời trách nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết của người thôn Vĩ 
Vẻ đẹp của thôn Vĩ: 
Hình ảnh “nắng hàng cau” gợi tả vẻ đẹp của hàng cau khi được những tia nắng tinh khôi, thanh thiết chiếu rọi. 
Động từ “nhìn” được đặt đầu câu càng tô đậm sức cuốn hút của ánh nắng buổi bình minh. 
 Đó là một màu nắng trong trẻo, tinh khôi của những tia nắng đầu tiên vươn mình lên hàng cau xinh đẹp trong vườn nhà. 
Thân bài 
Nắng thiên nhiên bao phủ lên vườn nhà, cỏ cây được thưởng thức nắng mới lại càng sinh sôi, căng tràn nhựa sống: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. 
Cỏ cây xanh mướt, mỡ màng và bóng bẩy trong nắng, một cảnh vườn xinh xắn như hiện ra trước mắt người đọc. 
Bóng dáng người con gái yêu kiều, kín đáo thấp thoáng hiện ra sau nhành lá trúc mảnh mai: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” 
 Giữa vườn thiên nhiên tươi đẹp, hình ảnh con người càng thêm nổi bật, tô đậm sự hài hoà giữa cảnh và tình. 
* Tâm trạng và nỗi cầu vọng của thi nhân 
Kết bài  
 Cảm nhận chung về giá trị bài thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ đẹp. Đẹp bởi bức tranh thiên nhiên xanh tươi nơi xứ Huế, đẹp bởi tình người bước ra từ trang thơ. Có thể nói, bằng một tâm hồn đầy yêu thương và tài năng trong ngòi bút, Hàn Mặc Tử đã viết nên một tuyệt tác bất hủ với thời gian. 
3. Bước 3: Viết 
Dựa vào dàn ý đã xây dựng để luyện tập kĩ năng viết. 
Chú ý: 
Bài viết đủ 3 phần 
Mỗi ý trong bài cần được triển khai thành một đoạn văn; từng đoạn văn đều có câu chủ đề, được đặt ở vị trí thích hợp. Các luận điểm trong phần thân bài phải làm rõ cho vấn đề nêu ở đề bài. 
3. Bước 3: Viết 
Các dẫn chứng phải đúng, tiêu biểu và phong phú . C ần chú ý dẫn các dòng thơ , khổ thơ có thể minh họa tốt cho ý đã được nêu , kèm theo những lời bình , phân tích phù hợp , t ránh tình trạng nói chung chung thiếu căn cứ . 
  C ần thể hiện được sự rung động thật sự của mình trước bài thơ nhưng tránh lối nói đại ngôn hay sử dụng quá nhiều những câu cảm thán . 
  Lập luận chặt chẽ, lời văn trong sáng, thể hiện được thái độ, tình cảm của người viết với vấn đề nghị luận. 
4. Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa, hoàn thiện 
- Đọc kĩ bài viết của mình và đối chiếu với các yêu cầu đã nêu ở các bước để kiểm tra và chỉnh sửa theo Phiếu chỉnh sửa bài viết 
- HS có thể tráo đổi bài để trong bàn chấm và chữa cho nhau. 
N ội dung kiểm tra 
Yêu cầu cụ thể 
Đạt/ 
Chưa đạt 
Bố cục ba phần 
Mở bài: 
+ Đã giới thiệu được vấn đề cần nghị luận chưa? 
+ Nêu được ấn tượng đặc biệt của bản thân về tác phẩm chưa? 
Thân bài: 
+ Có giới thiệu về tác giả, tác phẩm không? 
+ Có phân tích được tính chất gợi mở của đề bài không? 
+ Có phân tích được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người không? 
+ Đ ã phân tích, đánh giá được các yếu tố trong thơ ( từ ngữ , hình ảnh , các h tổ chức nh ạc đ iệu , các h liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh ,)? 
Kết bài: 
Có khái quát được vấn đề, có nêu được giá trị của tác phẩm không? 
Phiếu chỉnh sửa bài viết 
Các lỗi còn mắc 
Lỗi về ý: thiếu ý, lặp ý, lạc ý 
Lỗi về trình bày, chính tả, dùng từ và diễn đạt 
Đánh giá chung 
- Bài viết đáp ứng yêu cầu đạt mức độ nào? 
- Em thấy hứng thú hoặc khó khăn nhất khi thực hiện phần nào trong tiến trình thực hành viết? 
Tham khảo: Vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử, được sáng tác vào năm 1938, in lần đầu trong tập “ Thơ điên” . Khi viết bài thơ này Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn bệnh nặng, cả thể xác lẫn tinh thần bị đau đớn và bệnh tật giằng xé. Nhưng thể hiện qua bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ”  ta chỉ thấy một chất thơ nhẹ nhàng, một hồn thơ khao khát yêu thương, bệnh tật dường như không thể chạm đến tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, hình ảnh gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, “ Đây thôn Vĩ Dạ”  vẽ lên một bức tranh đẹp về một miền quê Việt Nam cũng như qua đó gửi gắm tiếng lòng tha thiết yêu đời, yêu người của tác giả. 
	Câu mở đầu: “Sao anh không về c ...  không phù hợp. 
	Nếu là người thôn Vĩ (chủ nhân khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ. Một người đàn ông về thôn Vĩ chắc không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông! Còn là người trở về thôn Vĩ, thì người ấy chính là Tử, nói chuẩn hơn là hình tượng của chính Cái Tôi thi sĩ. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu... như thế này thường là hình bóng tự hoạ của Tử. Mà Tử vẫn có cái “thói” tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh và có phần... vơ vào nữa (“Người thơ phong vận như thơ ấy”, “Có chàng trai mới in như ngọc? Gió căng hơi và nhạc lên trời”, “Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó / Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu”...). 
	Thực ra, cũng chả riêng gì Tử vơ vào. Nguyễn Bính chân quê cũng “vơ vào” chả kém khi tự hoạ một cách bóng gió trong một khuôn hình gần giống thế: “Bóng ai thấp thoáng sau rào trúc / Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền”. Nghĩa là khuôn mặt và hình dáng văn nhân cả thôi. Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền sau lá trúc, không chỉ là sản phẩm của “tâm lí vơ vào” dễ thương thế thôi đâu. Sâu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Mặc cảm này thường khiến Tử vẽ mình trong các trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời”, kẻ “đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa”, kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Kẻ ấy thường làm những chuyến trở về với cuộc đời Ngoài kia một cách thầm lén, vụng trộm. 
	Tử hình dung mình trở về thôn Vĩ (hay tái hiện lại cái lần mình đã trở về mà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thế!), vin một cành lá trúc, che ngang khuôn mặt mình để mà nhìn vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân phận mình. Trong đó chẳng phải giấu kín một niềm uẩn khúc đáng trân trọng mà cũng thật đáng thương sao? Song, hẳn sẽ có ý thắc mắc rằng: mạch thơ đang vẽ đối tượng (cảnh nơi thôn Vĩ) sao thoắt lại chuyển sang vẽ chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi lôgic không? Đúng thế. Nhưng, như bạn biết đấy, cóc nhảy và phi lôgic trên bề mặt chính là một đặc trưng của mạch liên tưởng “thơ điên”. Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Tử mà thôi 
Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là “Ngoài kia”, vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Với Tử đó là thiên đường trần gian - một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi tầm mình. Về thôn Vĩ vốn là việc bình thường, với Tử giờ đây lại thành một ước ao- ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc- hạnh phúc quá tầm tay. 
Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác: cảnh dòng sông. Hiểu là sông Hương cũng được mà dòng sông nào đó của cuộc đời “Ngoài kia” cũng được. Mặc cảm chia lìa ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu: 
Gió theo lối gió mây đường mây 
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay 
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 
Có chở trăng về kịp tối nay? 
	Hai câu trên nói đến một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi: gió bay đi, mây trôi đi, dòng nước cũng buồn bã ra đi... Có phải cảnh tượng kia là một cái gì thật ngang trái trớ trêu? Đúng thế. Trước tiên, gió mây làm sao có thể tách rời - mây không tự di chuyển, gió thổi mây mới bay, chúng không thể chia tách. Rõ ràng, đây không còn đơn thuần là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng không thể chia lìa! “Dòng nước buồn thiu” vì mang sẵn trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn li tán chia phôi từ mây gió đã bỏ buồn vào lòng sông? Khó mà đoán chắc. Lạ nhất là chữ “lay”. Động thái “lay” tự nó không vui không buồn. Sao trong cảnh này nó lại buồn hiu hắt vậy? Nó là nét buồn phụ hoạ với gió mây sông nước? hay nỗi buồn sông nước đã lây nhiễm, đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này? 
	Thật khó mà tách bạch. Có phải có một chữ “lay” buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử: Ai về giồng dứa qua truông / Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em? Có phải chữ “lay” ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông: Lá ngô lay ở bờ sông - Bờ sông vẫn gió người không thấy về? Và tất cả những chữ “lay” kia có phải đều dây mơ rễ má với chữ “hiu hiu” đầy ám ảnh của thơ Nguyễn Du: Trông ra ngọn cỏ lá cây / Thấy hiu hiu gió thì hay chị về? Hiu hiu, lay động đều là tín hiệu báo sự hiện hữu. 
Cứ nhìn thấy thế là người ngóng trông nhận ra sự trở về nào đó từ cõi vô hình. Còn Tử nhìn hoa bắp lay để nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi. Cả mây, gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và đều lìa bỏ chốn này mà đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là cái tĩnh tại, không thể tự nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái “lay” kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa? Có phải Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến Tử nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng “lay” sầu tủi của hoa bắp? 
Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngoài tầm sống của mình ấy, Tử chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng về với mình, ấy là trăng. Phải, mây đã đi, gió đã đi, dòng nước cũng đi... may ra chỉ còn trăng thôi: 
 Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 
 Có chở trăng về kịp tối nay? 
	Trong bài thơ này có hai chữ “về”. Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với “Ngoài kia” (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?), thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Tử, về với “Trong này”. Cũng phải thôi, trong “lãnh cung” của sự chia lìa, vốn “không có niềm trăng và ý nhạc”, nên Tử đã đặt vào trăng kì vọng của mình: “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng giờ đây như một bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc! Tìm kiếm vẻ đẹp của những câu này, người phân tích thường chỉ chú mục vào hình ảnh “sông trăng”, “thuyền trăng” với thủ pháp huyền ảo hoá. 
	Thực ra đó chỉ là những vẻ đẹp thuộc cái duyên phô ra của thơ mà thôi. Tôi muốn nói đến chữ khác lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bảy ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng, ấy là chữ “kịp”. Chữ “kịp” mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chắc chắn không thể biết “tối nay” kia là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng khắc khoải và qua chữ “kịp” này ta nhận ra một lời cầu khẩn. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. 
Như thế, chữ ‘kịp” đã hé mở cho ta một cách thế sống: sống là chạy đua với thời gian. Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Tử hơn. Cũng chạy đua với thời gian, nhưng ở Xuân Diệu là để được hưởng tối đa, sống để mà tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trần giới, bởi đời người quá ngắn ngủi, cái chết sẽ chờ đợi tất cả ở cuối con đường, còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng. Quĩ thời gian đang vơi đi từng giờ từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn đã sát gần. Trong cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vây khốn. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử. 
Khổ thứ ba, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đoạn trước, nhịp thơ ở đây gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn: 
Mơ khách đường xa, khách đường xa 
Áo em trắng quá nhìn không ra 
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Tất cả đều là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới “Ngoài kia”. Ở trên, tôi đã nói đến vẻ đẹp trinh khiết như là chuẩn mực cho cảm quan thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử. Trinh khiết trở thành vẻ đẹp phổ biến của thế giới và của những Nàng thơ trong cõi thơ Tử. Những người con gái trong thơ Tử bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ trinh khiết xuân tình. 
	Gắn làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi. Cho nên ngóng ra thế giới “Ngoài kia”, thì hình bóng người khách đường xa (người tình xa) phải là trung tâm, phải thanh khiết nhất, lung linh nhất. Và đắm say tột bậc cái vẻ đẹp này, Tử thường cực tả bằng những sắc trắng dị kì. Tử dồn cả màu cả ánh để diễn đạt cho được trực cảm của mình: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Thậm chí, có lúc không theo kịp trực giác, lời thơ trở nên kì quặc: “chết rồi xiêm áo trắng như tinh”... Nhiều người phân tích chưa nhận thấy đặc trưng này của thơ Tử đã giải thích áo trắng quá nhìn không ra là bởi lẫn vào sương khói. Không phải thế. “Áo em trắng quá nhìn không ra” chính là một tiếng kêu, một cách cực tả sắc trắng ở sắc độ tuyệt đối, tột cùng. Trắng đến mức lạ lùng, không còn tin vào mắt mình nữa (tựa như tiếng kêu vườn ai mướt quá xanh như ngọc đã phân tích ở trên). Đừng lầm tưởng rằng đây là lời thú nhận về sự bất lực của thị giác. 
Như thế, cuối cùng, mơ tưởng da diết khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con người, vẫn là hướng tới những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thế giới “Ngoài kia”, có lẽ mất mát lớn nhất, niềm đau thương nhất vẫn là phải chia lìa với người mình yêu vậy. 
Đến đấy, Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mịt mờ: 
 Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 
 Ai biết tình ai có đậm đà? 
	Được viết gần như đồng thời với bài  Những giọt lệ , cho nên ta cứ nghe đâu đây trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, như tuyệt vọng: “Tôi đang còn đây hay ở đâu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?” và “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi? / Bao giờ tôi hết được yêu vì?”... Tử yêu đời đến đau đớn. Còn cuộc đời, tình đời còn dành cho Tử được bao nhiêu, được bao lâu? Cuộc đời “Ngoài kia” vẫn cứ kì diệu thế, vẫn “cách xa nghìn thế giới” như thế, vẫn cứ cách ở đây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế. Tồn tại ở đây, ở trời sâu này thật quá đỗi mong manh. 
Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Tử với ngoài ấy. Thế mà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao? Câu hỏi cuối cùng khép lại toàn bộ dòng tâm tư bất định này là tiếng thở dài hay là lời cầu mong của một kẻ thiết tha gắn bó đến cháy lòng? Có lẽ là cả hai. Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình “ Đây thôn Vĩ Dạ” . 
Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ”  mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng vẫn để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ mà còn là nỗi lòng của một con người với những tâm sự sâu lắng, với những khát khao yêu đời, yêu người. Hiện nay, theo nhiều đánh giá, bài thơ xứng đáng được xếp vào một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại. 

Tài liệu đính kèm:

  • pptxbai_giang_mon_ngu_van_lop_10_sach_ket_noi_tri_thuc_bai_2_vie.pptx