Phân tích bài Đại cáo bình Ngô

Phân tích bài Đại cáo bình Ngô

*Luận đề chính nghĩa

“Từng nghe:

 Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

 Chứng cớ còn ghi.”

Đoạn mở đầu bài cáo có vai trò hết sức quan trọng đối với toàn bộ tác phẩm. Ở đoạn này tác giả đã nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến để từ đó làm nền, làm tư tưởng cốt lõi, làm chỗ dựa sức mạnh tinh thần cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong quá trình chống quân Minh.

Lập trường chính nghĩa dựa trên hai nội dung lớn: Tư tưởng nhân nghĩa và chân lý độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Tư tưởng nhân nghĩa ấy được thể hiện ở câu:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

 Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

 

docx 3 trang Người đăng phamhung97 Lượt xem 4506Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích bài Đại cáo bình Ngô", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô (cô Duyên)
*Luận đề chính nghĩa
“Từng nghe:
 	 Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
 	  Chứng cớ còn ghi.” 
Đoạn mở đầu bài cáo có vai trò hết sức quan trọng đối với toàn bộ tác phẩm. Ở đoạn này tác giả đã nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến để từ đó làm nền, làm tư tưởng cốt lõi, làm chỗ dựa sức mạnh tinh thần cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong quá trình chống quân Minh.
Lập trường chính nghĩa dựa trên hai nội dung lớn: Tư tưởng nhân nghĩa và chân lý độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Tư tưởng nhân nghĩa ấy được thể hiện ở câu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
 	 Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa đã có từ lâu theo Nho gia: Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Còn với Nguyễn Trãi ông nhấn mạnh nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Rõ ràng cống hiến to lớn của Nguyễn Trãi là phát triển tư tưởng nhân nghĩa theo hướng tích cực tiến bộ. Tư tưởng nhân nghĩa đã có từ lâu theo Nho gia: Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Còn với Nguyễn Trãi ông nhấn mạnh nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Rõ ràng cống hiến to lớn của Nguyễn Trãi là phát triển tư tưởng nhân nghĩa theo hướng tích cực tiến bộ. 
Như vậy theo Nguyễn Trãi nhân nghĩa là gắn liền với chống giặc ngoại xâm. Khẳng định như vậy, Nguyễn Trãi mới bóc trần được luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch, mới phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa. Với Nguyễn Trãi nhân nghĩa không còn là một vấn đề đạo đức cá nhân ( Nhân , lễ, nghĩa, trí, tín ) mà là một lý tưởng xã hội cao đẹp.
Tiếp theo là chân lý về tư cách độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định tư cách độc lập của dân tộc.
Thể hiện rõ qua cách viết sóng đôi, các triều đại của nước ta và Trung Quốc qua niềm tự hào về bề dày lịch sử của dân tộc. 
 	“Từ Triệu  xưng đế một phương”
Họ xưng đế ở nước họ, ta xưng đế ở nước ta ngang nhau, bình đẳng, cách viết vừa sóng đôi, vừa đề cao nước mình đọc lên nghe sang sảng và tự hào vô cùng về tư cách độc lập của dân tộc. 
Nước ta có lãnh thổ riêng, phong tục tập quán bao đời cũng rất khác nhau:
 	“Núi sông cũng khác”
Nước ta có nền văn hiến lâu đời và đời nào cũng có những anh hùng hào kiệt:
 “Như nước Đại Việt ta từ trước,
 	 Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. 
 	 “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
 	 Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nếu như 400 năm trước trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt chỉ mới xác định hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền thì 400 năm sau trong “Đại cáo bình Ngô”, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm các yếu tố là: văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử, nhân tài. Hơn nữa Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc dựa vào “thiên thư” còn Nguyễn Trãi dựa vào lịch sử. Đó là bước tiến của tư tưởng thời đại nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ ý thức dân tộc và cũng là tầm cao của tư tưởng Ức Trai.
Hơn nữa Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc dựa vào “thiên thư” còn Nguyễn Trãi dựa vào lịch sử. Đó là bước tiến của tư tưởng thời đại nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ ý thức dân tộc và cũng là tầm cao của tư tưởng Ức Trai.
Và hơn thế trải qua 4 thế kỉ lịch sử giành và giữ độc lập, trải qua các triều đại Lý Trần và những chiến công hiển hách thắng quân Tống, bình quân Mông Nguyên, Nguyễn Trãi có thể tự hào cất cao tiếng nói dõng dạc, đường hoàng:
 	“Lưu Cung  giết tươi Ô Mã”
Cách nêu dẫn chứng cho người đọc thấy được chiến công hiển hách của dân tộc vừa cho thấy sự thất bại nhục nhã của kẻ thù. Hai câu văn đã nhắc đến 4 thất bại thảm hại của giặc phương Bắc để đi đến một kết luận chắc nịch: “Việc xưa  còn ghi”.
(Nghệ thuật) Đoạn văn sử dụng các từ ngữ mạnh mẽ, dứt khoát “ vốn xưng”, “đã chia” “đã lâu” kết hợp với nghệ thuật sóng đôi đặc biệt là sóng đôi sự thất bại của giặc với chiến công vẻ vang của ta trong thực tế lịch sử khẳng định. Chúng ta chiến đấu là để bảo vệ tư cách độc lập của dân tộc.
(Sơ kết) Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sảng khoái, đanh thép, dứt khoát, nhịp văn mạnh cùng cảm xúc tự hào.Nguyễn Trãi đã thể hiện được tư tưởng lớn của thời đại: tư tưởng nhân nghĩa và độc lập bình đẳng dân tộc để qua đó khẳng định mạnh mẽ, lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Vì vậy qua đoạn 1 của Đại cáo bình Ngô, chúng ta thấy tác phẩm có giá trị như là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc.
*Tố cáo tội ác giặc Minh
	“Vừa rồi:
	 Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
	  Ai bảo thần nhân chịu được?”	
Chỉ trong 12 câu với 24 dòng văn đứng trên lập trường dân tộc và nhân dân với giọng văn khi uất ức, khi cảm thương, khi nghẹn ngào đau đớn.. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của bọn xâm lược. Từng câu từng chữ như thấm đẫm và nước mắt của nhân dân vô tội và của chính tác giả.
	Trước hết đứng trên lập trường dân tộc, Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu xảo quyệt của bọn giặc. Chúng lợi dụng chính sự phiền hà của họ Hồ đã làm cho lòng dân oán thán khắp nơi để cướp nước ta, lừa dối nhân dân ta dưới chiêu bài “ phù Trần diệt Hồ”. Các từ “nhân”; “thừa cơ” đã lột trần luận điệu giả nhân giả nghĩa, “mượn gió bẻ măng” của kẻ thù.
 	“Nhân họ Hồ.cầu vinh”
Tiếp theo đứng trên lập trường nhân dân tác giả đã tố cáo những chủ trương cai trị rất thâm độc vô nhân đạo của kẻ thù với nhân dân. Chúng gây ra đủ mọi tội ác, không tội ác nào chúng chừa, trời đất Đại Việt ta không còn thứ gì chúng không tàn hại.
Bóc lột thuế khóa nặng nề:
 	“Nặng thuế khóa  đầm núi”
	Vơ vét tài nguyên bắt nhân dân cống nạp những của cải quý hiếm, khiến người dân lâm vào tình cảnh bi đát, cùng cực không còn đường sống, cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển:
 	“Người bị  nước độc”
	Chúng phá hoại cả môi trường sống: 
 	“Vét sản vật  phu phen”
Chúng còn phá hoại tiêu diệt cả nền sản xuất : 
“Tan tác cả nghề canh cửi”
Tập trung nhất man rợ nhất tội ác được miêu tả trong câu:
“Nướng dân đen  tai vạ”
Đây là tội khủng bố hủy hoại cuộc sống của con người bằng hành động diệt chủng tàn sát vô cùng man rợ, là tội ác điển hình trong muôn vàn tội ác, là sự thật điển hình trong muôn vàn sự thật. Với nghệ thuật đối: “ nướng – vùi” cùng hai hình tượng “dân đen – con đỏ” tác giả đã diễn tả rất thật tội ác man rợ kiểu Trung cổ của giặc Minh. Đồng thời đã khái quát đúc kết lại đau xót để muôn đời nhân dân nguyền rủa quân xâm lược.
Đối lập với tình cảnh của những người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù đã được tác giả vật hóa như một bầy dã thú đang khát máu săn mồi: 
“Thằng há miệng chưa chán”
Câu văn đã thật sự gợi lên được cảm xúc ghê tởm, khinh bỉ, căm thù cao độ của tác giả đối với lũ giặc.
Để diễn tả tội ác chồng chất của giặc, Nguyễn Trãi đã dùng những câu văn rất hình tượng như một lời khép tội hùng hồn đanh thép:
 	“Độc ác  sạch mùi”
Tác giả đã lấy cái vô hạn “trúc Nam Sơn” để nói lên cái vô hạn là tội ác của giặc, dùng cái vô cùng “nước Đông Hải” để làm bật lên cái vô cùng là sự dơ bẩn của kẻ thù để cuối cùng dẫn đến lời khẳng định: tội ác của chúng khiến trời không dung, đất không tha và lòng nhân dân nơi nơi căm phẫn: 
 	“Lẽ nào  chịu được”
(Sơ kết) Với hàng loạt biện pháp nghệ thuật được sử dụng như động từ mạnh (nướng, vùi, đem, bắt) những từ ngữ gợi hình tương (dân đen, con đỏ)câu đối, câu cảm thán, câu hỏi tu từ, giọng văn đầy cảm xúc, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc và đứng về cuộc sống của nhân dân để tố cáo lên tội ác của giặc Minh nên đoạn văn có dáng dấp như một bản Tuyên ngôn nhân quyền thời trung đại.

Tài liệu đính kèm:

  • docxTuan_20_Dai_cao_binh_Ngo_Binh_Ngo_dai_cao_tiep_theo.docx